Đối thoại với doanh nghiệp châu Âu về cải cách thủ tục hành chính
Ngày 12/12 tại Hà Nội, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng và Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) tổ chức hội nghị đối thoại cấp cao về cải thiện môi trường đầu tư và thương mại Việt Nam.
Tại hội nghị, đại diện 16 tiểu ban ngành nghề thuộc Eurocham đã trình bày những quan ngại của cộng đồng DN châu Âu. Đối với lĩnh vực thuế, các tiểu ban đã trao đổi những vấn đề liên quan đến hoàn thuế GTGT, sự nhất quán trong quy định pháp luật về thuế TNCN và thuế TNDN, đề xuất thuế TTĐB đối với đồ uống có đường.
Cùng với đó, hội nghị đã thảo luận 3 vấn đề chính bao gồm những thách thức về tiếp cận thị trường đối với hàng hoá và đầu tư vào Việt Nam; lưu hành sản phẩm trên thị trường; quy trình cấp phép.
Cuộc đối thoại này là hoạt động mới nhất trong chuỗi hoạt động giữa Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng và Eurocham.
- Published in Tin tức
Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý thuế: Khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp sẽ thực hiện theo năm
Việc thực hiện khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được thực hiện theo năm. Trường hợp tổ chức khai thuế lần đầu, phải nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất 30 ngày kể từ ngày phát sinh thuế phải nộp. Thời gian nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng đầu tiên năm dương lịch.
Theo dự thảo nghị định hướng dẫn Luật Quản lý thuế sửa đổi do Bộ Tài chính xây dựng, người nộp thuế khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được thực hiện theo năm.
Đối với tổ chức khai lần đầu, phải nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất 30 ngày kể từ ngày phát sinh. Hàng năm tổ chức nộp hồ sơ khai thuế sử dụng đất nông nghiệp chậm nhất ngày cuối cùng của tháng đầu tiên năm dương lịch.
Với trường tổ chức khai bổ sung, người nộp thuế phải nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày phát sinh sự thay đổi. Khai bổ sung hồ sơ khai thuế được áp dụng đối với: Trường hợp thay đổi về người nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; có phát sinh các yếu tố làm thay đổi căn cứ tính thuế dẫn đến tăng, giảm số thuế phải nộp; phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai sót, nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp.
Đối với hộ gia đình, cá nhân kê khai lần đầu, theo hướng dẫn, hộ gia đình, cá nhân phải thực hiện kê khai và nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất 30 ngày kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế. Hàng năm hộ gia đình, cá nhân không phải kê khai lại nếu không có sự thay đổi về người nộp thuế và các yếu tố dẫn đến thay đổi số thuế phải nộp.
Trường hợp cá nhân kê khai bổ sung, người nộp thuế phải khai bổ sung chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày phát sinh sự thay đổi. Khai bổ sung hồ sơ khai thuế được áp dụng đối với: Trường hợp phát sinh các yếu tố làm thay đổi căn cứ tính thuế dẫn đến tăng, giảm số thuế phải nộp (trừ trường hợp thay đổi giá 1m2 đất tính thuế); phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai sót, nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp.
Về địa điểm nộp hồ sơ khai thuế, tổ chức nộp hồ sơ khai thuế sử dụng phi nông nghiệp đến cơ quan thuế nơi có đất chịu thuế, hoặc đến cơ quan tiếp nhận hồ sơ về đất theo cơ chế một cửa liên thông. Hộ gia đình, cá nhân nộp hồ sơ khai thuế sử dụng phi nông nghiệp đến chi cục thuế nơi có đất chịu thuế hoặc đến cơ quan tiếp nhận hồ sơ về đất theo cơ chế một cửa liên thông.
Hồ sơ khai thuế lần đầu bao gồm: Tờ khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp dùng cho tổ chức hoặc hộ gia đình, cá nhân đối với từng thửa đất chịu thuế; bản sao các giấy tờ liên quan đến thửa đất chịu thuế (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định giao đất, Quyết định hoặc hợp đồng cho thuê đất, Quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất); bản sao các giấy tờ chứng minh thuộc diện được miễn, giảm thuế (nếu có).
Hồ sơ khai bổ sung gồm: Tờ khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp dùng cho cá nhân, hộ gia đình hoặc cho tổ chức đối từng thửa đất chịu thuế; bản chụp các giấy tờ chứng minh thuộc diện được miễn, giảm thuế./.
- Published in Tin tức
Nhiều hiệp định thương mại đang bước vào giai đoạn cuối của lộ trình cắt giảm thuế
Ngày 12/12, Bộ Tài chính đã tổ chức họp báo chuyên đề về việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam.
Tại cuộc họp báo, ông Hà Duy Tùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính) cho biết, dù thực hiện theo hiệp định thương mại thế hệ mới hay cũ, thì cắt giảm thuế vẫn là vấn đề cốt lõi và nhận được sự quan tâm cao nhất của bên tham gia đàm phán, cũng như của DN các nước. Cho đến cuối 2019, Việt Nam đã và đang đàm phán 20 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 12 FTA đang được thực thi như ASEAN, ASEAN- Trung Quốc, ASEAN- Ấn Độ, Việt Nam- Nhật Bản, Việt Nam- Hàn Quốc… Để thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan với những FTA này, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 12 nghị định về các biểu thuế ưu đãi cho đối tác. Trong số này, có nhiều hiệp định đang bước vào giai đoạn cuối của lộ trình cắt giảm thuế. Như vậy lộ trình xóa bỏ thuế trong các hiệp định đó cơ bản đã hoàn thành. Riêng với Hiệp định thương mai đối tác xuyên Thái Bình Dương CPTPP còn có đặc thù là ngoài nội dung cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu như các hiệp định khác, thì còn có cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu.
Cũng theo ông Tùng, riêng trong năm 2019, có 4 hiệp định (trừ CPTPP) giữa Việt Nam với các nước đã được ký kết, bao gồm: Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu EU (EVFTA), Hiệp định thương mại hàng hóa giữa ASEAN và Hồng Kông (Trung Quốc) (AHKFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam – CuBa, và bản thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương giữa Việt Nam và Campuchia. Cụ thể, Hiệp định EVFTA (dự kiến trình Quốc hội và Nghị viện EU để tiến hành thủ tục phê chuẩn để có hiệu lực thực thi trong nửa đầu năm 2020), Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ EU. Với hiệp định này, sau 10 năm sẽ có khoảng 99% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu từ EU được xóa bỏ. Trong đó, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu với hàng hóa xuất sang EU với lộ trình lên đến 15 năm, trừ những mặt hàng được duy trì thuế xuất khẩu tập trung vào một số nhóm hàng quan trọng như dầu thô, than đá (trừ than để luyện cốc và than cốc).
Đối với AHKFTA, hiện Bộ Tài chính đang trình Chính phủ ký ban hành Nghị định về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện cho giai đoạn 2019-2022. Mức thuế suất AHKFTA được xây dựng trên nguyên tắc tuân thủ cam kết theo lộ trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam quy định tại AHKFTA. Về tổng thể, Biểu thuế AHKFTA theo Danh mục biểu thuế hài hoà ASEAN năm 2017 (AHTN 2017) giai đoạn 2019 – 2022 gồm 10.856 dòng thuế, trong đó có 10.775 dòng thuế theo cấp độ 8 số và 81 dòng thuế được chi tiết theo cấp độ 10. Lộ trình cắt giảm thuế quan trong biểu thuế ban hành được áp dụng cho 4 giai đoạn theo từng năm, từ năm 2019 – 2022. Sau khi có hiệu lực, Việt Nam cam kết xóa bỏ khoảng 72% số dòng thuế. Tương tự, thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Cuba giai đoạn 2019-2022 gồm 563 dòng thuế. Lộ trình cắt giảm thuế quanđược áp dụng cho 4 giai đoạn. Trong khi đó, hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Campuchia giai đoạn 2019-2020 có hiệu lực từ 26/2/2019 có 32 mã hàng (thuốc lá, lúa gạo, thịt, gia cầm, chanh…) được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt 0%.
Trả lời câu hỏi của các phóng viên tại sao thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết tại các FTA, nhưng tổng thu NSNN hàng năm vẫn tăng? Ông Tùng chia sẻ, thu ngân sách từ thuế xuất khẩu chỉ là một bộ phận trong tổng thu NSNN. Hàng năm, tổng thu NSNN vẫn tăng là do số thu từ nội địa tăng do ngành tài chính không ngừng thực hiện đồng bộ các giải pháp từ tái cơ cấu ngân sách, mở rộng cơ sở thu.
Liên quan đến tác động đến số thu của ngành hải quan, ông Lê Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) nhấn mạnh, ngành hải quan không chỉ thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà còn được giao nhiệm vụ thu thuế TTĐB đối với hàng hóa đặc biệt, thuế BVMT, thuế GTGT và một số sắc thuế nhập khẩu bổ sung khác như: thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ. Khi cắt giảm thuế quan theo cam kết FTA, thì chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu, các sắc thuế còn lại vẫn thực hiện bình thường theo các quy định hiện hành. Ông Hùng nhấn mạnh, trên thực tế có những mặt hàng nhập khẩu chỉ có một sắc thuế, nhưng cũng có những mặt hàng phải chịu cả 4 sắc thuế là nhập khẩu, GTGT, TTĐB, BVMT. Do vậy, thực hiện cắt giảm thuế theo các hiệp định, thực chất là chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu, nên tác động đến số thu của ngành hai quan không đáng kể.
Dẫn chứng số liệu của Tổng cục Hải quan năm 2018, khi thực hiện các FTA thì thuế nhập khẩu giảm 29.000 tỷ đồng và trong 11 tháng của 2019 con số này là 13.000 tỷ đồng; về tỷ trọng thuế nhập khẩu trong tổng số thu của ngành hải quan cũng giảm dần nếu như 2017 tỷ trọng thuế nhập khẩu trong tổng thu chiếm 21,85%, thì đến năm 2018 giảm còn 17,4% và dự kiến năm 2019 còn 16,7%. Số thu thuế nhập khẩu giảm, nhưng tổng thu của ngành hải quan không giảm, hết tháng 11 đã đạt 320.000 tỷ đồng, dự báo cả năm 2019 là 340.000 tỷ đồng, tăng so với 2018. Như vậy, về giá trị tương đối thì giảm, nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng do việc thu thuế xuất nhập khẩu còn phụ thuộc vào kim ngạch xuất nhập khẩu và các biện pháp khác.
- Published in Tin tức